Viết bởi Đặng Ngọc Hùng
Đánh dấu một cuộc hành trình trở về. Muốn trở về, phải ra đi với tinh thần hùng hậu nhất. Nhưng có một cuộc ra đi như vậy, nhưng vào thời điểm ra đi, “người ra đi” không tìm thấy sự đồng điệu như mong muốn, nếu không nói là ngược lại. Đó là trường hợp của bài thơ “Ngày về” của Chính Hữu.
Có một nhóm người lên đường bước trên rừng sâu
Đêm nay anh ta mơ thấy trở về Hà Nội
Bao giờ trở lại? Phố phường cũ gạch ngói ngang đường
Ôi hôm nay họ nhớ mái nhà hoang
Bức tường xưa tàn ngày xưa trấn ngự
Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa
Toàn kinh thành cháy rực sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phới cờ đỏ thắm
Giày rách đôi đã đi vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hoa
Chính Hữu viết bài thơ này vào năm 1947.
Trong bản in “Tuyển tập Chính Hữu” của Nhà xuất bản Văn học, bài thơ chỉ có 10 câu, được biết đến là trích từ lời viết cho bài hát của Lương Ngọc Trác; các câu thứ 5, 6, 7, 9 được thay đổi về từ ngữ: Câu thứ 5 “Ôi hôm nay họ nhớ mái nhà hoang” thành “Nhớ biết bao nhiêu những mái nhà hoang”, câu thứ 6 “Bức tường điêu tàn ngày xưa trấn ngự” thành “Bức tường đổ điêu tàn ta từng trấn giữ”, câu thứ 9 “Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa” thành “Đêm ta ra đi đất trời bốc lửa”, và một số thay đổi khác. Trong bài báo “Nguyên văn bài Ngày về của Chính Hữu” đăng trên tờ Quân đội nhân dân, người làm tuyển tập cho biết đây là ý muốn của Chính Hữu.
Vẽ bức tranh về một bài thơ độc đáo của thơ Việt hiện đại
Một bài thơ đôi khi cũng giống như một con người. Nó có số phận riêng của nó. “Ngày về” hay đến như vậy, sau 73 năm, khi đọc lại, ta vẫn thấy nó hay, rực rỡ, vẫn đánh thức trong lòng người đọc tình yêu quê hương. Nhưng lại được xem là “tiểu tư sản”, là “anh hùng cá nhân”. Đến mức năm 1966, Chính Hữu thậm trí không đưa “Ngày về” vào tập “Đầu súng trăng treo”.
Những người cùng thời với Chính Hữu, với áp lực cần thiết của tiêu chí đại chúng, quần chúng hoá của hoàn cảnh chiến tranh, nhìn “Ngày về” như trên thì đã đành. Điều đáng nói là một số người của giai đoạn sau cũng giữ lăng kính ấy.
Vũ Quần Phương cho rằng: “Chất liệu thơ ở đây có nhiều cách bức với đời thật: giày rách trở thành giày vạn dặm và bụi trường chinh phai bạc áo hoa” (1; 148).
Nhị Ca có cái nhìn phát hiện nhưng kết luận lại không có lợi cho “Ngày về” khi cho rằng bài thơ còn “những rơi rớt máu giang hồ, khẩu khí tráng sĩ hề” (1; 168).
Ngô Vĩnh Bình lặp lại cụm từ “sặc mùi tiểu tư sản” đã xuất hiện từ nhiều năm trước (1; 17).
Có một điều cũng cần suy nghĩ, đó là: Người khác nói nặng “đứa con” do mình sinh ra đã đành mà ngay cả “cha” của nó tức Chính Hữu cũng đối xử với “con” mình không nhẹ nhàng gì. Trả lời phỏng vấn của nhà nghiên cứu văn học Bích Thu, Chính Hữu nói: “Thời gian này, thơ tôi mang dáng dấp tiểu tư sản, với những hình ảnh ngôn ngữ xưa cũ, thể hiện khá rõ trong bài Ngày về” (2; 180).
Người viết bài này không ngạc nhiên về thái độ của Chính Hữu bởi Chính Hữu từ chàng trai “chưa trắng nợ anh hùng” vào năm 1946, đứng trong hàng ngũ của Trung đoàn thủ đô, nhiều năm sau là đại tá, Phó Cục trưởng phụ trách văn hóa văn nghệ, Phó tổng thư ký Hội Nhà văn. Vị thế của một cán bộ cao cấp, cũng có thể xem là một chính khách, buộc Chính Hữu phải cẩn trọng trong lập ngôn.
Nhưng chúng ta, với tư cách là những người yêu văn chương, yêu dân tộc, tự hào về anh vệ quốc quân thì nếu nhìn lại những trang sử bi tráng của dân tộc ta từ 1858, trên cơ sở thi pháp học, phải nhìn “Ngày về” ở góc độ khác.
“Ngày về”, một bài hành độc đáo của thơ Việt hiện đại
Ngôn từ trong “Ngày về” có “xưa cũ” không? Những từ như “trấn ngự”, “kinh thành”, “chưa trắng nợ anh hùng”, “Hồn mười phương”, “gươm lan”, “xác oan cừu”, “gót lưu ly” có xưa cũ không? Ai trong chúng ta không biết bài “Nam bộ kháng chiến” của Tạ Thanh Sơn, tiếng thét đầu tiên phản ứng sự lì lợm của thực dân Pháp sau gần 90 năm sống kiếp đời nô lệ. Trong bài hát này, Tạ Thanh Sơn sử dụng các từ ngữ như “sơn hà nguy biến”, “trận tiền”, “muôn thu”, “anh hào”… Sự hùng tráng của bài hát đã lấn át tất cả mọi thứ.
“Ngày về” có “sặc mùi tiểu tư sản” không? Thông thường, trong văn nghệ của chúng ta, tiểu tư sản được hiểu là do dự, thiếu dũng khí, hoặc dao động, không có cứu cánh. Đó có thể là người ra đi trong “Tống biệt hành” của Thâm Tâm. Trong đó, người ta ra đi mà không biết đi đâu và để làm gì. Đó cũng có thể là Dũng trong tiểu thuyết “Đôi bạn” của Nhất Linh, người luôn nung nấu và dấn bước ra đi để lập đại sự nghiệp với cách sống của khách chinh phu, sẵn sàng quăng thân vào gió bụi nhưng theo lời của nhân vật Trúc thì “Lần này nhảy ra cũng như nhảy ra chỗ mờ mịt; nhưng cần gì, đời là thế”. Nhân vật trữ tình trong “Ngày về” thì không như vậy. Tựa đề bài thơ đã là một cứu cánh, một quyết định dứt khoát: Đi là để trở về. Trở về trong ngày chiến thắng. Trong những ngày hội non sông. Mạnh mẽ thật!
“Ngày về” có khẩu khí “tráng sĩ hề” không? Rõ ràng, có. Rất rõ. Nhưng không phải là “tráng sĩ hề” giả tạo, hoài cổ, không phải cái vỏ ngoài kiêu hãnh. Tráng sĩ trong bài thơ này là những người lính vệ quốc quân từ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, họ dũng cảm và quả cảm, hít thở không khí thiêng liêng của Hà Nội từ khi Bác Hồ đọc “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” vào đêm 19 tháng 12 năm 1946. Tinh thần đó chảy trong máu, trong xương của người dân Việt. “Ngày về” không có những Tầm Dương với Xích Bích, cũng không có lính đi hành quân mà “Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu” như trong “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi. Nhân vật trong “Ngày về” là những người lính xuất thân từ học sinh, sinh viên, trí thức đô thị, họ đã đến ngày cuối cùng của cuộc chiến đấu chống Pháp.
“Ngày về” không tiểu tư sản, không “xưa cũ”. Nó sử dụng thi liệu xưa mà sẽ trở thành điểm sáng tạo của Chính Hữu. Ví dụ, “xác oan cừu” nghe có hơi thở xưa nhưng “phất nắng” lại rất hiện đại. “Ngày về” không có những căn bệnh như “đạo rớt”, “mộng rớt”, “nhắm rớt”, “ngắm rớt”, “buồn rớt” như những tác phẩm khác. Nó là một bài hành đầu tiên của văn học mới, hùng hậu và hào hoa, bức tranh của người chiến sĩ vệ quốc quân hiện lên sống động, qua các nẻo đường lịch sử của dân tộc. Và, chỉ nhắc đến Chính Hữu qua “Đồng chí”, “Giá từng thước đất”, “Ngọn đèn đứng gác…” mà bỏ quên “Ngày về” là một mất mát không thể bù đắp.
Tài liệu tham khảo:
(1): Ngô Vĩnh Bình, “Tuyển tập Chính Hữu”, NXB Văn học, 1998
(2): Mã Giang Lân, “Văn học Việt Nam 1945-1954”, NXB Giáo dục, 2003