Có thể nói Phan Bội Châu là biểu tượng của những cuộc cách mạng chống thực dân Pháp. Ông đã hiến dâng cuộc đời để đấu tranh cho giải phóng dân tộc vào đầu thế kỉ XX. Những tác phẩm thơ văn của ông không chỉ là vũ khí tuyên truyền, mà còn chứa đựng lòng yêu nước sâu sắc. Một nhà phê bình văn học đã viết: “Những người viết văn, những người làm thơ trong Phan Bội Châu luôn đồng lòng với những người chính trị – Ngòi bút Phan Bội Châu sáng rực chủ nghĩa yêu nước, ý thức anh hùng”.
Phan Bội Châu được xem là một nhà yêu nước, điều này đã được lịch sử khẳng định. Ông đã hoạt động cả trong và ngoài nước để truyền bá chính trị yêu nước, từ Nhật Bản, Trung Quốc đến Thái Lan, cho đến khi ông bị giam giữ tại Huế. Ông đã thành lập nhiều phong trào yêu nước như Duy Tân Hội, Việt Nam Quang Phục Hội. Từ một người yêu nước tri thức, Phan Bội Châu đã trở thành một nhà cách mạng dân chủ tư sản. Không chỉ là một nhà lãnh đạo cách mạng, ông còn là một nhà thơ yêu nước. Tác phẩm của ông là đỉnh cao của thơ ca yêu nước cách mạng trong thế kỉ này, với hàng trăm bài thơ và nhiều tác phẩm văn học khác. Ông từng phê phán việc sử dụng văn chương để lập danh vọng:
“Mỗi phận đều cảm thấy thất vọng,
Lập danh với văn chương làm gì?”
Ông chỉ coi văn chương là một trong những công cụ để chiến đấu chống đối kẻ thù. Khi Pháp xâm chiếm Bắc Kì, Phan Bội Châu đã viết hịch “Bình Tây thu Bắc” và sau đó viết “Lưu cầu thuyết lệ tân thư” như một sợi dây liên kết với những người yêu nước. Khi ở nước ngoài, ông sáng tác nhiều hơn và có sức mạnh biểu đạt lớn hơn. Ông đã viết về lịch sử đau thương của Việt Nam trong “Việt Nam Vong Quốc Sử”, “Hải Ngoại Huyết Thư” và “Trùng Quang Tâm Sử”, cũng như viết “Ngục Trung Thư” khi bị giam ở Quảng Châu (Trung Quốc). Tác phẩm của ông mang trong mình tình yêu sâu sắc dành cho dân tộc và quyết tâm cách mạng. Ông đã đưa tư tưởng này vào văn học một cách tự nhiên:
“Con người viết văn và con người làm thơ trong Phan Bội Châu luôn đồng lòng với những người chính trị”. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi “Ngòi bút Phan Bội Châu sáng rực chủ nghĩa yêu nước”.
Số phận của Phan Bội Châu đã trở nên không thể tách rời với số phận của dân tộc: “Tôi sinh ra khi Nam Kì bị mất đã năm rồi… Khi tôi 19 tuổi… quân Pháp chiếm kinh thành Thuận Hóa… Tôi đã cảm động và thống thiết trước những anh hùng liệt sĩ hy sinh chống Pháp: ‘ông Trương Định vì Nam Kì mà hy sinh, ông Nguyễn Tri Phương vì Hà Nội mà hy sinh… Tôi thường bàn đến chuyện này và cảm thấy nhục nhã phải lùi sau hai ông’… (Ngục Trung Thư)”.
Phan Bội Châu căm thù những nhà thực dân đã cướp tài sản và bóc lột dân tộc:
“Trăm thứ thuế, thuế gì cũng ngặt,
Rút chặt dần như thắt chỉ xe.”
Ông cũng bi thương cho cuộc sống nô lệ của nhân dân:
“Nó nuôi mình như trâu như chó,
Nó coi mình như cỏ như rơm.”
Ông chỉ trích những quan lại tham lam:
“Cơm ngự thiện bữa nghìn quan,
Ngoài ra dân đói, dân tản mặc dân…”
Phan Bội Châu cũng thể hiện sự yêu nước sâu xa. Ông hiểu rõ trách nhiệm của mình trong việc cứu nước:
“Chính là mảnh đất Hồng Lạc mãi mãi.
Anh hùng làm sao chịu hà chịu ri!”
Do đó, ông khát khao giải phóng đất nước:
“Hãy đập tan cành cây nhạt nhòa,
Vẽ lại mùa xuân trên đất nước này!”
Ông coi dân là trọng tâm và muốn dân sống trong một xã hội dân chủ tiến bộ: “Dân là dân nước, nước là nước dân”. Không chỉ nhấn mạnh trách nhiệm cứu nước, Phan Bội Châu đã tham gia vào cuộc đấu tranh chống Pháp một cách mạnh mẽ: “… chúng tôi đã hiến dâng cuộc sống cho nước, không tiếc mạng sống để đạt được mục tiêu, thì còn gì là đáng sợ hơn nữa?” (Ngục Trung Thư). Ông thể hiện tinh thần đấu tranh vĩ đại qua những câu thơ:
“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muon trùng sóng bạc tiễn ra khơi.”
Khi bị giam giữ, ông vẫn tự hào với tinh thần anh dũng của một chiến sĩ yêu nước:
“Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nguy hiểm sợ gì đâu.”
“Ngòi bút Phan Bội Châu còn “sáng rực lí tưởng anh hùng”. Ngoài những câu thơ trong “huyết thư” thể hiện nỗi đau lòng trước tình trạng nô lệ quốc gia, ông cho rằng cần có nhiều anh hùng đứng ra đảm trách trách nhiệm yêu nước. Vì vậy, ông tập trung vào việc mô tả những nhân vật anh hùng trong tác phẩm của mình. Các tác phẩm “Việt Nam Nghĩa Liệt Sĩ”, “Việt Nam Quốc Vong Sự”, “Phan Bội Châu Niên Biểu” đã vẽ nên hình ảnh những anh hùng hi sinh trong những cuộc đấu tranh không tên xuất phát từ tầng lớp lao động. “Trùng Quang Tâm Sử” miêu tả những anh hùng xuất thân từ tầng lớp nghèo khó như anh Xí, ông Võ, anh Phần… Đặc biệt, ông coi trọng vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp cứu nước. Ví dụ như nhân vật cô Chỉ trong “Trùng Quang Tâm Sử” đã là một nữ anh hùng thông minh, tài giỏi, và đặc biệt, có lòng yêu nước sâu sắc.
Phan Bội Châu là một nhà cách mạng lớn, đồng thời cũng là một nhà văn lớn. Ông có tình yêu nồng nàn đối với dân tộc và quyết tâm dằn mặt cách mạng. Ông đã ghi dấu ấn với nhiều tác phẩm yêu nước có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật. Cuộc đời và tác phẩm của Phan Bội Châu chứng minh rằng, để phục vụ cách mạng qua văn học nghệ thuật, trước hết phải có tình yêu nước và lí tưởng dành cho dân tộc. “Ngòi bút Phan Bội Châu sáng rực chủ nghĩa yêu nước, lí tưởng anh hùng”.