Bạn đã từng tự hỏi những tác phẩm nào quan trọng trong chương trình Ngữ Văn lớp 8 kì 2? Để giúp bạn hiểu rõ hơn về vấn đề này, chúng ta hãy cùng khám phá những tác phẩm nổi bật mà bạn sẽ gặp trong môn học này.

Các Tác Phẩm Văn Học Trung Đại

1. Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu)

  • Tác giả: Lý Công Uẩn (974 – 1028)
  • Hoàn cảnh sáng tác: Viết vào năm 1010, Lý Công Uẩn muốn dời đô từ Hoa Lư (nay thuộc Ninh Bình) đến Đại La (tức Hà Nội ngày nay)
  • Thể loại: Chiếu

Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu) là một tác phẩm mang tính chất ban bố mệnh lệnh của vua. Được viết bằng văn vần, văn biền ngẫu hoặc văn xuôi, chiếu này đã được công bố một cách trang trọng. Một số bài chiếu thể hiện tư tưởng chính trị lớn lao, có ảnh hưởng đến vận mệnh của cả triều đại, đất nước. Nội dung của chiếu phản ánh khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất và ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh. Văn thể của tác phẩm sử dụng những câu văn biền ngẫu, sóng đôi tạo nhịp điệu cân đối và những hình ảnh giàu sức gợi hình, gợi cảm. Giọng văn của tác phẩm giàu sức thuyết phục, kết hợp giữa lí và tình.

1.2. Hịch tướng sĩ

  • Tác giả: Trần Quốc Tuấn (1231? – 1300)
  • Hoàn cảnh sáng tác: Viết trước cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên lần thứ hai (1285)
  • Thể loại: Hịch

Hịch tướng sĩ là một tác phẩm văn xuôi của Trần Quốc Tuấn. Thể loại hịch thường được sử dụng để kêu gọi đấu tranh chống thù trong giặc ngoài. Tác phẩm có kết cấu chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, dẫm chứng thuyết phục. Kết cấu của bài hịch kêu gọi đánh giặc gồm 4 phần: Phần mở đầu nêu vấn đề; Phần thứ hai nêu truyền thống vẻ vang trong sử sách để gây lòng tin tưởng; Phần ba nhận định tình hình, phân tích phải trái để gây lòng căm thù giặc. Phần kết thúc nêu chủ trương cụ thể và kêu gọi đấu tranh. Tác phẩm phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Văn thể của tác phẩm sử dụng những câu văn biền ngẫu, sóng đôi tạo nhịp điệu và những hình ảnh gần gũi, giàu sức gợi hình.

1.3. Nước Đại Việt ta (Trích Bình Ngô đại cáo)

  • Tác giả: Nguyễn Trãi (1380 – 1442)
  • Hoàn cảnh sáng tác: Viết vào đầu năm 1428, sau chiến thắng quân ta, Nguyễn Trãi soạn thảo Bình Ngô đại cáo.

Nước Đại Việt ta (Trích Bình Ngô đại cáo) là một tác phẩm loại cáo của Nguyễn Trãi. Cáo là một thể loại văn bản hành chính của nhà nước quân chủ, thường được dùng để tổng kết một công việc, trình bày một chủ trương xã hội chính trị cho dân chúng biết. Tác phẩm này được viết bằng văn biền ngẫu, không có vần hoặc có vần, thường có đối, câu dài ngắn không gò bó, mỗi cặp hai vế đối nhau. Nội dung của tác phẩm có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập, khẳng định rằng nước ta có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, phong tục riêng, có chủ quyền và có truyền thống lịch sử. Kẻ xâm lược là phản nhân nghĩa, nhất định sẽ thất bại. Nghệ thuật của tác phẩm là lập luận chặt chẽ và chứng chứng cứ hùng hồn.

Các Tác Phẩm Thơ

2.1. Nhớ rừng

  • Tác giả: Thế Lữ (1907 – 1989)
  • Thể thơ: Tự do
  • Phương thức biểu đạt: Biểu cảm, tự sự

Nhớ rừng là một tác phẩm thơ của Thế Lữ. Bài thơ này mượn lời con hổ bị nhốt trong vườn bách thú để diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khao khát tự do mãnh liệt bằng những vần thơ tràn đầy cảm xúc lãng mạn. Đồng thời, bài thơ cũng khơi dậy lòng yêu nước thầm kín của người dân mất nước. Nghệ thuật của tác phẩm là ngôn ngữ tinh tế, được chọn lọc, giàu sức gợi hình và đặc biệt là giàu xảm xúc. Bút pháp đối lập, tương phản giữa hiện tại và quá khứ là điểm nhấn của bài thơ này.

2.2. Ông đồ

  • Tác giả: Vũ Định Liên (1913 – 1996)
  • Thể thơ: Năm chữ
  • Phương thức biểu đạt: Tự sự, biểu cảm

Ông đồ là một tác phẩm thơ của Vũ Định Liên. Bài thơ này thể hiện tình cảnh đáng thương của “ông đồ” và niềm cảm thương chân thành trước một lớp người đang tàn tạ và nỗi tiếc nhớ cảnh cũ, người xưa của nhà thơ. Ngôn ngữ của tác phẩm rất bình dị, cô đọng. Kết cấu đầu cuối tương ứng trong bài thơ cũng là một điểm nhấn đặc biệt của ông đồ.

2.3. Quê hương

  • Tác giả: Tế Hanh
  • Thể thơ: Tự do
  • Phương thức biểu đạt: Tự sự, biểu cảm, nghị luận

Quê hương là một bài thơ của Tế Hanh, được rút trong tập thơ Nghẹn ngào và sau đó được in trong tập Hoa niên. Bài thơ này miêu tả một làng quê miền biển sống động, trong đó nổi bật hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức sống của người dân chài và sinh hoạt lao động của làng chài. Nghệ thuật của bài thơ này được thể hiện qua giọng thơ mộc mạc, giản dị, ngôn ngữ giàu giá trị biểu cảm, hình ảnh so sánh giàu hình ảnh và có giá trị biểu cảm cao, phép ẩn dụ, đảo trật tự từ trong câu, hàng loạt động từ mạnh, tính từ, phép liệt kê và sử dụng phương pháp biểu đạt tự sự đan xen miêu tả và biểu cảm.

2.4. Khi con tu hú

  • Tác giả: Tố Hữu (1920 – 2002)
  • Hoàn cảnh sáng tác: Sáng tác trong nhà lao Thừa Phủ, khi tác giả bị bắt giam ở đây.
  • Thể thơ: Lục bát

Khi con tu hú là một tác phẩm thơ lục bát của Tố Hữu. Bài thơ này được viết trong nhà lao Thừa Phủ, khi tác giả bị bắt giam. Phương thức biểu đạt của bài thơ là miêu tả, biểu cảm. Nội dung của tác phẩm là lòng yêu nước và niềm khao khát tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh tù đày. Nghệ thuật của bài thơ đó là thể thơ lục bát giàu nhạc tính, ngôn ngữ bình dị, giàu sức gợi.

2.5. Tức cảnh Pác Bó

  • Tác giả: Hồ Chí Minh (1890 – 1969)
  • Hoàn cảnh sáng tác: Viết sau khi trở về Việt Nam và sống trong Pác Bó
  • Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt
  • Phương thức biểu đạt: Tự sự, biểu cảm

Tức cảnh Pác Bó là một tác phẩm thơ của Hồ Chí Minh. Sau ba mươi năm bôn ba hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Bác Hồ trở về Việt Nam để trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến trong nước. Bài thơ này được viết trong thời gian Bác sống và làm việc trong hang Pác Bó, một hang núi nhỏ sát biên giới Việt – Trung. Bài thơ phản ánh tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Bác trong cuộc sống cách mạng đầy gian khổ ở Pác Bó. Phương thức biểu đạt của bài thơ này là tự sự, biểu cảm. Ngôn ngữ bình dị pha giọng vui đùa, hóm hỉnh là điểm nhấn trong tác phẩm này.

2.6. Ngắm trăng (Vọng nguyệt)

  • Tác giả: Hồ Chí Minh
  • Hoàn cảnh sáng tác: Sáng tác trong nhà lao, tù đày
  • Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt
  • Phương thức biểu đạt: Miêu tả, biểu cảm

Ngắm trăng (Vọng nguyệt) là một bài thơ của Hồ Chí Minh. Bài thơ này được viết trong thời gian Bác bị giam cầm trong các nhà tù của tỉnh Quảng Tây. Bài thơ thuộc tập Nhật kí trong tù, gồm 134 bài thơ, được Bác sáng tác trong hơn một năm ở tù. Thể thơ của bài thơ là Thất ngôn tứ tuyệt. Phương thức biểu đạt của bài thơ là miêu tả, biểu cảm. Nội dung của tác phẩm là tình yêu thiên nhiên đến say mê và phong thái ung dung của Bác ngay cả trong cảnh ngục tù cực khổ, tối tăm. Nghệ thuật của tác phẩm là thể thơ tứ tuyệt, ngôn ngữ bình dị, hàm súc, giàu sức gợi.

Các Văn Bản Nghị Luận

3.1. Bàn luận về phép học (Luận học pháp)

  • Tác giả: La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp
  • Hoàn cảnh sáng tác: Trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung vào tháng 8/1971
  • Thể loại: Tấu
  • Phương thức biểu đạt: Nghị luận

Bàn luận về phép học (Luận học pháp) là một tác phẩm nghị luận của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp. Nội dung của tác phẩm là nêu mục đích và phương pháp học tập đúng đắn, hiệu quả. Nghệ thuật của bài nghị luận này là lập luận chặt chẽ, thuyết phục.

3.2. Thuế máu

  • Tác giả: Nguyễn Ái Quốc
  • Tác phẩm: Bản án chế độ thực dân Pháp

Thuế máu là một đoạn trích từ Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc. Đoạn trích này là một phần trong chương 1 của tác phẩm. Phương thức biểu đạt của tác phẩm là nghị luận, tự sự. Nội dung của tác phẩm là vạch trần sự thật về chính quyền thực dân Pháp, đã biến người dân nghèo khổ ở các xứ thuộc địa thành vật hiến để phục vụ cho lợi ích của mình trong các cuộc chiến tranh tàn khốc. Nghệ thuật của tác phẩm là tư liệu phong phú, xác thực, ngòi bút trào phúng sắc sảo, hình ảnh giàu giá trị biểu cảm và giọng điệu vừa đanh thép, vừa mỉa mai, chua chát.

3.3. Đi bộ ngao du

  • Tác giả: Ru-xô
  • Đoạn trích nằm trong quyển V – quyển cuối cùng của tác phẩm Ê-min hay Về giáo dục (ra đời năm 1762)
  • Phương thức biểu đạt: Nghị luận

Đi bộ ngao du là một đoạn trích nằm trong quyển V của Ê-min hay Về giáo dục của Ru-xô, nổi tiếng với tên gọi khác là Jean-Jacques Rousseau. Phương thức biểu đạt của bài viết là nghị luận. Nội dung của tác phẩm chứng minh chân lí rằng, muốn giáo dục cần phải đi bộ. Nghệ thuật của tác phẩm là lập luận chặt chẽ, có sức thuyết phục và kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và thực tiễn của cuộc sống tác giả từng trải qua.

Đó là một số tác phẩm trọng tâm trong chương trình ngữ văn lớp 8 kì 2. Hi vọng những thông tin này đã giúp bạn hiểu rõ hơn và cảm thấy thú vị với môn học ngữ văn.

About The Author