“Nỗi sầu nhân thế” cùng thế giới ngôn từ trong thơ Huy Cận

Không gian nghệ thuật trong thơ của Huy Cận là một thế giới sâu lắng, bàng bạc và mênh mông cảm xúc. Lấy cảm hứng từ vũ trụ và thiên nhiên, thơ của Huy Cận mang đến một không gian rộng lớn trong nỗi buồn bao la, cảm giác của sự cô độc và tầm nhìn hạn chế của con người trước vũ trụ, cuộc sống ngắn ngủi của loài người trên trái đất vô tận của đất trời…

“Nỗi sầu nhân thế” cùng thế giới ngôn từ trong thơ Huy Cận
“Nỗi sầu nhân thế” cùng thế giới ngôn từ trong thơ Huy Cận

Khi tìm hiểu về phong cách nghệ thuật của Huy Cận, chúng ta có thể nhìn thấy thế giới nội tâm sâu sắc qua hình ảnh không gian như dòng sông, bầu trời, con đường, biển cả… Tất cả nhưng thể hiện nỗi buồn thiên cổ, nỗi buồn mà từ thuở con người cảm nhận được sự tầm thường của cuộc sống, cảm nhận cái tôi bé nhỏ của một linh hồn lạc hợp. Sau Cách mạng tháng Tám, cuộc sống đã thổi vào hồn thơ Huy Cận một luồng gió mới, thay đổi cách nhìn của nhà thơ. Bút pháp lãng mạn tài hoa vẫn còn, cảm hứng từ vũ trụ vẫn không thay đổi, nhưng hồn thơ của Huy Cận tràn đầy sức sống, đầy niềm tin “Trời mỗi ngày lại sáng”. Điểm nhìn đã thay đổi và tứ thơ cũng thay đổi, hình ảnh của thiên nhiên, vũ trụ cũng thay đổi và mang đến thông điệp mới về con người và cuộc sống.

“Nỗi sầu nhân thế” cùng thế giới ngôn từ trong thơ Huy Cận

“Nỗi sầu nhân thế” trong thơ Huy Cận

Theo Hoài Thanh, thơ của Huy Cận luôn chứa đựng một nỗi buồn, một “nỗi buồn từ đáy lòng không biết đến cảnh vật bên ngoài”. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ của Huy Cận là tiếng lòng chứa đựng một nỗi buồn vô cùng sâu sắc. Thơ mới vinh danh cái Đẹp, cái Tuyệt đối, cái Vô cùng, cái Cao siêu; và cái Đẹp luôn đi đôi với cái Buồn. Huy Cận từng cho rằng: “Cái đẹp luôn có chút buồn thương” (Kinh cầu tự). Hồn thơ của Huy Cận là “hồn buồn” mang hình ảnh của Á Đông đẹp cùng tinh thần dân tộc. Thơ Huy Cận rơi vào những nỗi buồn nhân thế, luôn hướng tới triết lý về bản chất con người. Một bài thơ như “Tràng giang” tưởng chừng chỉ là biểu hiện cảm xúc, nhưng lại gợi lên nhiều ý niệm sâu xa về cuộc sống của riêng Huy Cận và của mỗi người trong chúng ta. Sống trong sự lưu chuyển sinh hóa, con người không khác gì một cành củi nhỏ bé. Sự lưu chuyển sinh hóa đó chỉ là “bề khổ”. Sự đồng cảm với bản thân và thế hệ của mình cũng giống như khi thi nhân đồng cảm với sự sống, với loài người.

Thế giới ngôn từ trong thơ Huy Cận

Thế giới nghệ thuật và ngôn từ trong thơ Huy Cận được biết đến với sự phong phú, độc đáo và nổi bật của hình tượng cái tôi trữ tình.

Thế giới nghệ thuật trong thơ và văn thường chứa đựng và thể hiện quan niệm riêng của nhà nghệ sĩ về thế giới, con người, và khát vọng về chân, thiện, mĩ và sự sáng tạo. Để tiếp cận thế giới nghệ thuật trong thơ, chúng ta phải nhìn thấy cái Tôi trữ tình. Cái Tôi được biểu hiện qua chủ thể trữ tình, giọng điệu trữ tình hoặc hình mẫu lí tưởng mà hồn thơ tôn thờ. Ngoài cái Tôi trữ tình, Thế giới – tức không gian tự nhiên và xã hội bao quanh cái Tôi (không gian, thời gian, các nhân vật trữ tình) – là yếu tố không thể thiếu để xây dựng thế giới nghệ thuật trong thơ. Với Huy Cận, cái Tôi trữ tình mang trong mình một nỗi buồn nhân thế và nhận thức về con người và vũ trụ. Cái Tôi trữ tình được đặt trong mối quan hệ với văn học cổ, là sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển và tinh thần của thời đại mới; được đặt trong mối quan hệ với vườn hoa cái Tôi cá nhân của Thơ mới. Đó là một loài hoa lạ, mang trong mình “hồn buồn” của tuổi trẻ, vừa mang sắc đẹp sâu sắc, ý niệm thâm trầm.

Phân tích đoạn thơ để thấy nỗi sầu nhân thế và tình yêu quê hương của tác giả

GỢI Ý THÂN BÀI

  1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vị trí đoạn trích.
  2. Phân tích (đề cương).
  3. Nỗi sầu nhân thế và tình yêu quê hương của tác giả.
  • Khắp “Tràng giang” là nỗi buồn sâu sắc lan tỏa trong không gian và hiện thực qua từng cảnh vật. Nỗi buồn đó hiện lên thông qua tâm trạng cô đơn và hạn chế của con người giữa vô tận của vũ trụ. Đó là nỗi buồn thời đại đặc trưng của Thơ mới, làm nên quan niệm thẩm mỹ của Thơ mới: đẹp là buồn.
  • Nhưng nếu đi sâu vào căn nguyên của nỗi buồn, ta sẽ thấy rằng nó không phải là một nỗi buồn vô ngừng, vô lý kiểu “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”, mà là một nỗi buồn có nguyên nhân xã hội: nỗi buồn của một thế hệ mất nước. Vì vậy, những hình ảnh trống rỗng, cô đơn như “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng” thực chất là một nỗi buồn nhân thế. Đó là cái buồn của một thế hệ lạc loài trên chính quê hương của mình, không biết đi đâu, trở về đâu.
  • Trong cô đơn đó, khát khao hòa nhập với cuộc sống và tình người là một nhu cầu tự nhiên. Tuy nhiên, nhân vật trữ tình không thể đạt được khát vọng đó khi tất cả những gì liên quan đến con người và cuộc sống đều bị phủ định, không có chút niềm thân mật, trống rỗng và cô đơn.
  • Từ tất cả những khát khao và nỗi buồn đó, nỗi nhớ quê hương hiện ra tự nhiên, là tiếng gọi tha thiết trong tâm hồn của thi nhân, là sự tìm kiếm sự ấm áp của tình người.

“Nỗi sầu nhân thế” cùng thế giới ngôn từ trong thơ Huy Cận

  • Tóm lại, nỗi sầu nhân thế và tình yêu quê hương không phải là những cảm xúc tách biệt, mà ngược lại, chúng hòa quyện và tác động lẫn nhau. Hạt nhân của khối cảm sầu đó chính là tình yêu quê hương, là nỗi nhớ về một quê hương đã mất, của một linh hồn lạc loài trên chính quê hương của mình. Cũng từ nỗi nhớ đó, tình người và tình đời hiện ra như một khát khao tìm sự an ủi, một điểm tựa tinh thần, nhưng kết quả vẫn là sự cô đơn tận cùng.

About The Author