Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận là một tác phẩm tiêu biểu, được nhiều người biết đến. Trong tác phẩm này, phân tích 2 khổ đầu bài Tràng Giang là một trong những đề văn thường xuyên được nhắc đến. Bài thơ này mang đến những cảm xúc suy tư sâu sắc, thể hiện sự nhỏ bé của con người trước vũ trụ.
Để giúp các bạn học sinh hiểu cách phân tích 2 khổ đầu bài Tràng Giang một cách chi tiết, Trang Tài Liệu đã chọn ra top 10 bài văn mẫu phân tích cực hay.
Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng Giang mẫu 1
Huy Cận là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ Mới, ông có một hồn thơ “cổ điển nhất”. Trước Cách mạng, ông thường thích đi lên vùng đê Chèm vào chiều chủ nhật để thưởng thức cảnh sông Hồng đẹp tuyệt. Bài thơ Tràng Giang đã ra đời trong một chiều lãng mạn như vậy của Huy Cận, và được đăng trong tập Lửa Thiêng (1940). Tràng Giang không chỉ mang lại cảnh đẹp của tự nhiên, mà còn thể hiện tâm trạng và cảm xúc sâu kín của nhà thơ. Hãy cùng phân tích 2 khổ thơ đầu của bài Tràng Giang để hiểu rõ hơn về điều đó.
Thơ là một loại hình văn bản mang nhiều ý nghĩa, vì vậy người viết thơ thường không thể trực tiếp thể hiện những suy nghĩ của mình. Họ thường sử dụng cảnh tự nhiên để ngụ tình và sử dụng từ ngữ một cách chính xác. Muốn hiểu đúng ý thơ của nhà thơ, người đọc phải đọc từng lớp “vỏ” một cách chậm rãi để hiểu được tầng sâu nhất. Huy Cận cũng không phải ngoại lệ, ông đã sử dụng những cảnh quen thuộc như con thuyền, dòng sông để thể hiện cảm xúc của mình:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.”
Với việc lặp lại vần “ang” trong “tràng giang”, tác giả đã tạo ra một không gian rộng lớn, rợn ngợp. Đây cũng là một điểm nhấn trong phong cách thơ của Huy Cận. Ngay sau đó, tâm trạng của nhà thơ được mở ra với “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn không còn là một cái gì đó mơ hồ mà đã trở nên cụ thể, như từng đợt sóng dâng trào liên tiếp. Đọc câu thơ này, ta biết rằng nỗi buồn không chỉ kéo dài trong một khoảng thời gian ngắn mà là mãi mãi. Từ “song song” trong câu thơ sau đó gợi lên hình ảnh hai vật, hai thế giới nằm cạnh nhau nhưng không bao giờ va chạm, không gặp gỡ. Trong tác phẩm, tác giả nhấn mạnh sự cô đơn, lẻ loi của con thuyền trên dòng sông cũng như con người trong cuộc sống.
Trước đây, thuyền và nước là hai yếu tố luôn liên kết mật thiết với nhau. Nhưng trong Tràng Giang, chúng đã tách rời:
“Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
“Thuyền về” nhưng “nước lại”, hoạt động trái ngược nhau, gợi lên sự xa cách, cô đơn. “Sầu trăm ngả” tức là tiếc nuối và buồn bã. Có thể nói rằng tâm trung của khổ thơ đầu chính là câu “củi một cành khô lạc mấy dòng”. Hình ảnh này rất đặc biệt, bởi vì trong thơ ca truyền thống, thường chỉ sử dụng những vật liệu cao cấp như tùng, cúc, trúc, mai. Ông đã sử dụng ngôn ngữ không đồng và chọn lọc các từ đơn để tạo nên câu thơ rời rạc, không liên kết. Từ “lạc” đã được sử dụng một cách đặc biệt, cho ta thấy một con thuyền cô đơn đang bị đẩy đưa ngoài ý muốn, lạc lõng giữa những dòng nước không biết trôi về đâu. Hình ảnh đặc biệt này cũng ẩn dụ cho sự lênh đênh, lạc lõng của con người giữa thế giới rộng lớn.
Sang đến khổ thơ thứ hai, tác giả đã mở rộng tầm nhìn, vượt xa những gì hiện hữu:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót,
Sông dài trời rộng bến cô liêu.”
Thơ của Huy Cận buồn nhưng đậm chất, ông đã đậm chất để lấy sự yên tĩnh để tả sự buồn bã. Từ “lơ thơ” như muốn nói về sự trống trải, rời rạc của vùng đất, chỉ có mấy hòn cồn nhỏ nổi trên dòng “Tràng Giang”, và trên những hòn đất đó, có những bó lau và sậy mỗi khi có cơn gió thổi qua, những đợt sóng tiêu điều. Qua câu thơ tiếp theo, ta có thể nhìn thấy một không gian mang “hơi người” là chợ, chợ gợi lên bao tiếng mua bán nhộn nhịp, là biểu trưng cho đời sống kinh tế của một vùng miền. Nhưng ở đây, chợ chỉ vang vọng từ xa, sự sống đi vào thế tĩnh, không còn xô bồ nhộn nhịp. Nguyễn Trãi đã sáng tác về chợ, nhưng chợ của ông lại náo nhiệt và đông đúc:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ.”
Câu thơ của Huy Cận buồn nhưng đậm chất đạo đức, ông đã dùng cảnh chợ để tạo nên sự yên lặng của không gian. Tác giả tiếp tục đặt tâm trạng trong thiên nhiên để thơ buồn càng buồn hơn:
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót,
Sông dài trời rộng bến cô liêu.”
Trong đoạn thơ này, không gian đã được mở rộng theo ba chiều: cao, rộng, dài, thậm chí còn có cả độ sâu. Từ “chót vót” được sử dụng một cách táo bạo và độc đáo. Trong vũ trụ vô tận, vô số, có một hình ảnh nhỏ bé, cô đơn của con người, thể hiện tình trạng bị cuốn trôi trong đời sống. Dù không có từ ngữ nào đề cập trực tiếp đến con người, nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được cá nhân bé nhỏ, cách tách rời của nó trong không gian vô cùng. Hai chữ “cô liêu” cuối đoạn thơ với âm hưởng một lần nữa gợi lên nỗi buồn của con người, nỗi buồn vì sự sống quá nhỏ bé và hữu hạn so với vũ trụ vô biên. Nỗi buồn của con người đã lan tỏa khắp không gian, che phủ lên mọi cảnh vật. Bài thơ này của Huy Cận sẽ luôn sáng mãi trong lòng những người yêu thơ dù thời gian trôi qua và cuộc sống vẫn tiếp tục xô bồ.