Tiếng chuông reo vang, canh gà Thọ Xương. Mời các bạn cùng khám phá tài liệu về bình bài ca dao “Con cò mà đi ăn đêm”. Trong dân ca và ca dao, quê hương đã được miêu tả một cách tường tận. Dòng sông xanh biếc như tranh họa, “đường vô xứ Nghệ quanh quanh”. Đồng Đăng với phố Kỳ Lừa và nàng Tô Thị, cùng chùa Tam Thanh. Huế đẹp mộng mơ với núi Truồi và sông Hương… Và có cảnh sáng sớm mùa thu trên Hồ Tây, kinh thành Thăng Long với “ngàn năm văn vật”:
“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.
Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”.
Bài ca dao này mang trong mình nét đẹp cổ điển, như một bức tranh thuỷ mặc. Cảnh vật Hồ Tây được mô tả rất nên thơ: hình ảnh, màu sắc, đường nét, âm thanh hài hòa, sống động. Các khóm trúc ven hồ, cành lá um tùm rậm rạp, với sương mai “la đà” sát mặt nước, sát mặt đất, rung rinh, đu đưa trước làn gió nhẹ. Từ tượng hình “la đà” – một nét vẽ thoáng và gợi cảm, đầy ấn tượng:
“Gió đưa cành trúc la đà”.
Cây tre, cây trúc luôn gần gũi, quen thuộc với con người Việt Nam. Chúng là biểu tượng của làng quê. Tre, trúc mang trong mình vẻ đẹp tâm hồn của người thiếu nữ Việt Nam:
“Trúc sinh trúc mọc bờ ao,
Em xinh em đứng nơi nào cũng xinh”.
Sau khi miêu tả cành trúc, bài ca dao nhắc đến âm thanh:
“Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương”.
Câu ca dao này có nhịp chẵn 4-4, hai vế tiểu đối cân xứng, hài hoà như tiếng chuông đền Trấn Vũ và tiếng gà gáy từ làng Thọ Xương vọng tới. Đền Trấn Vũ, còn được gọi là đền Quan Thánh, nằm cạnh Hồ Tây và là nơi thờ đức Huyền Thiên Trấn Vũ. Tiếng chuông Trấn Vũ vang lên trong sương sớm như lời ru hồn người vào huyền thoại, lắng hồn núi sông ngàn năm, khiến con người yêu thêm non nước quê nhà. Tiếng gà gáy sang canh…đưa ta ra khỏi giấc mơ, nhưng cũng đánh thức nhịp sống bình dân:
“Lao xao gà gáy rạng ngày,
Vai vác cái cày, tay giắt con trâu…”.
Cùng với tiếng gà gáy, có nhịp chày giã từ phường Yên Thái rộn rã, nhịp nhàng. Lụa làng Trúc và giấy Yên Thái là những sản phẩm nức tiếng từ thời nhà Lý xa xưa, là niềm tự hào của những người thợ thủ công tài hoa:
“Lụa làng Trúc vừa thanh vừa bóng,
May áo chàng cùng sóng áo em…”.
“Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng,
Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co,
Liễu bờ kia bay to biếc phất phơ, thoi oanh ghẹo hai phường dệt gấm…”.
Âm thanh tiếng gà gáy và tiếng chày giã đã diễn tả cuộc sống lao động của dân tộc ta. Qua âm thanh ấy, ta cảm nhận được sự sống động của cuộc sống thường nhật và yên vui trong tâm hồn.
Nhà thơ dân gian đã đứng trầm ngâm, lặng ngắm cảnh sáng sớm trên Hồ Tây. Mùa thu, sáng sớm, cảnh vật mờ sương khói. Phố phường, làng mạc, cỏ cây “mịt mờ” trong “ngàn sương” và “khói tỏa”. Sương phủ trắng rộng lớn, mênh mông và mờ mịt. Cảnh tượng trở nên huyền ảo và thu hút. Câu thơ cổ kính chứa đựng vẻ đẹp và cảm xúc:
“Mịt mù khói tỏa ngàn sương”.
“Lạy” tượng hình “mịt mờ” và “ngàn sương” đã khiến bài ca dao trở thành một tác phẩm cổ điển, mang đậm hơi thở của văn thi cổ. Cuối bài, người viết miêu tả Hồ Tây trong sương sớm như một “mặt gương”. Biện pháp tu từ ẩn dụ được sử dụng tinh tế, vẽ nên một cảnh đẹp:
“Mặt gương Tây Hồ”.
Hồ Tây yên tĩnh, mênh mông và bao la, nước trong xanh, phẳng lặng như một tấm gương khổng lồ. Hồ Tây, qua hàng nghìn năm, đã trở thành một thắng cảnh của Thăng Long, cố đô của các triều đại Lý, Trần, Lê. Nó chói lọi trong sử sách và là biểu tượng thiêng liêng của hồn nước ngàn năm. Ngày nay, đó là Hà Nội, thủ đô của Việt Nam. Bài ca dao này làm đẹp tâm hồn của mỗi người dân Việt Nam, và làm ta yêu thêm Hà Nội, nhớ về Thăng Long ngàn xưa.