Huy Cận: Nơi con chữ thấm đẫm một nỗi sầu vạn kỷ 

Là một thành viên nổi bật trong phong trào Thơ mới, Huy Cận đã tìm ra mục đích và lý tưởng chân chính cho tiếng nói nghệ thuật của mình sau khi tham gia vào Cách mạng. Ông trở thành một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại.

Với vốn văn hóa phong phú, dòng cảm xúc tinh tế và quan điểm nghệ thuật rõ ràng, Huy Cận đã trở thành một trong bốn đỉnh cao của phong trào Thơ mới trong thời gian đó và góp phần khiến thi đàn Việt Nam càng trở nên rực rỡ.

Vài nét về nhà thơ Huy Cận

Huy Cận, tên thật là Cù Huy Cận, sinh năm 1919 tại huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất thân trong một gia đình gia giáo, với bố là nhà nho và mẹ là một cô gái ở vùng quê có nghề dệt lụa truyền thống. Bố mẹ ông đều yêu văn chương và đặc biệt yêu Truyện Kiều.

Huy Cận sinh ra ở một vùng đất bán sơn địa, với cảnh vật hùng vĩ và hoang sơ, và người dân ở đây, mặc dù cuộc sống khó khăn nhưng lại rất yêu đời và thích hát và kể truyện thơ Nôm.

Mặc dù gia đình có cha mẹ đều rất thông thạo chữ viết và hòa hợp nhau, nhưng không khí gia đình Huy Cận thường nặng nề vì nhiều xung đột giữa các thế hệ. Trong những lúc như vậy, ông thích lang thang giữa vùng quê mênh mang và thả hồn vào đất trời để gần gũi với đất đai và cuộc sống của người nông dân.

Trưởng thành, Huy Cận trở nên nhạy cảm với cuộc sống của chính mình và lòng yêu mến, trân trọng thiên nhiên và con người trong ông ngày càng nở rộ nhờ truyền thống văn hóa của gia đình và quê hương.

“Tôi sinh ra ở miền sơn cước

Có núi làm xương cốt tháng ngày

Ðất bãi tơi làm da thịt mát

Gió sông như những mảnh hồn bay.”

Ngay từ nhỏ, Huy Cận được bố dạy học chữ Hán và sau đó, lên học ở Huế cho đến khi hết tú tài. Sau đó, ông lên Hà Nội học tại trường Cao đẳng Canh nông, và trong thời gian học ở đó, Huy Cận làm quen với Xuân Diệu và cùng nhau sinh hoạt.

Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh, rồi tham dự nhiều hoạt động quan trọng và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy của nhà nước. Huy Cận cũng cộng tác với nhóm Tự Lực Văn Đoàn và có quan hệ thân thiết với các thành viên của nhóm đó.

Sau khi Cách mạng thành công, ông giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính phủ như Bộ trưởng Canh Nông, Thứ trưởng Bộ Nội Vụ và Thứ trưởng Bộ Kinh Tế. Ngoài ra, ông còn đảm nhận vai trò quan trọng trong lĩnh vực văn hóa của đất nước, như chức vụ Thứ trưởng thường trực Bộ Văn Hóa và Chủ tịch Ủy ban trung ương Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật.

Cuối cùng, ông nắm giữ chức vụ Phó chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông cũng có nhiều đóng góp quan trọng trong hoạt động quốc tế với nhiều vai trò khác nhau. Vào năm 2001, ông được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới.

Huy Cận có hai người vợ, trong đó, người vợ đầu tiên là bà Ngô Xuân Như, em gái của nhà thơ Xuân Diệu và người vợ thứ hai là bà Trần Lệ Thu, cán bộ giảng dạy Nga văn ở một trường Đại học lớn tại Hà Nội.

Ông có một người bạn thân thiết là Xuân Diệu, họ coi nhau như tri kỷ và Xuân Diệu đã sống chung với gia đình nhà thơ cho đến hết cuộc đời tại Hà Nội.

Huy Cận có hai con trai và hai con gái, hầu hết các con của ông đều trở thành những người thành đạt và đạt được nhiều vị trí quan trọng và giải thưởng danh giá.

Huy Cận và thơ trước Cách mạng tháng Tám

Con đường văn chương của Huy Cận chia thành hai giai đoạn, trước và sau khi Cách mạng tháng Tám thành công.

Nhà thơ bắt đầu sáng tác từ năm 1936 với việc viết những bài bình luận văn học trên các báo Tràng An, Sông Hương dưới bút danh Hán Quỳ. Hai năm sau, thơ của ông được đăng trên báo Ngày Nay và thu hút sự chú ý của nhiều người đọc và tác giả khác.

Năm 1940, Huy Cận xuất bản tập thơ Lửa thiêng, gồm những bài đã đăng trên báo từ năm 1936 đến năm 1940. Tập thơ này mang một nỗi buồn da diết và hình ảnh thiên nhiên bao la, hiu quạnh, nhưng lại tươi sáng và dễ thương với những cung bậc cảm xúc trong trẻo của tình yêu tuổi học trò.

Nhưng tình yêu đôi lứa ấy nhanh chóng vỡ tan và rơi vào vô vọng do sự buồn bã và tuyệt vọng trong tâm hồn Huy Cận từ những bi kịch và bế tắc của quá khứ xa xăm.

Cảm xúc hòa quyện giữa sự hồn nhiên và vẻ u hoài đã khiến Huy Cận trở thành nhà thơ có nỗi sầu vạn kỷ nhất trong các nhà thơ của Thơ mới.

Huy Cận và cuộc sống sau Cách mạng tháng Tám

Sau khi tạo ra tập thơ Lửa thiêng, Huy Cận tham gia vào Cách mạng và hoạt động trong mặt trận Việt Minh.

Trong giai đoạn này, thơ của Huy Cận chủ yếu là những lời kêu gọi và ca ngợi cuộc sống mới và con người mới sau Cách mạng. Tuy nhiên, giá trị nghệ thuật của những tác phẩm này không nổi bật như giai đoạn sáng tác trước đó.

Ông viết một số tác phẩm về biển và chiến tranh, như Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Họp mặt thiếu niên anh hùng, Ngày hằng sống, ngày hằng thơ và nhiều bài thơ khác.

Nhà thơ của cảnh sắc quê hương và niềm niềm nồng nàn yêu nước

Theo bối cảnh lúc bấy giờ, thơ Huy Cận dần đi vào bế tắc và mỗi nhà thơ phải tìm kiếm lối thoát riêng cho mình. Huy Cận tìm cách tránh xa trong vũ trụ và thiên nhiên. Ông kêu gọi mọi người trở về, hòa nhập với tạo vật, tìm niềm vui từ thiên nhiên và vũ trụ.

Năng lực của ông không chỉ đạt được thông qua sự tinh nhạy của các giác quan mà còn thông qua những năm tháng tuổi thơ sống ở quê hương. Huy Cận viết nhiều về cái chết, về sự tương phản giữa hữu hạn và vô hạn, và về sự sống và cái chết. Ông không khỏi xót xa và nuối tiếc, nhưng đó không phải là biểu hiện của sự ham sống hay sợ chết, mà là mong muốn được cống hiến hết mình, được sống lại.

Thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám có sự phân cực giữa hiện thực và lãng mạn. Từ sau 1945, hai đối cực này dần đạt đến sự hòa hợp, trên cơ sở thống nhất giữa lý tưởng và hiện thực trong cuộc sống mới.

Huy Cận là nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn của Việt Nam. Suối nguồn thơ ca truyền thống đã rót vào tâm hồn ông những giai điệu du dương, khiến cho tiếng thơ gần gũi rất dễ đi vào lòng người.

About The Author